Tang axit uric mau là một trong những nguyên nhân chính góp phần gây nên benh gut, tuy
nhiên không phải cứ tang axit uric là bị gut - đây thực chất là quá trình lắng
đọng axit uric gây tổn thương ở khớp.
|
Tăng axit uric máu dễ dẫn tới gut (ảnh minh họa) |
Nồng độ axit uric máu bình thường luôn được giữ ổn định ở nồng
độ dưới 7,0 mg/dl (420 micromol/ l) trong quá trình cân bằng giữa tổng hợp và
đào thải chất này. Bất kỳ nguyên nhân nào làm mất cân bằng hai qua trình tổng hợp
và đào thải này, chẳng hạn tăng tổng hợp axit uric hoặc giảm thải trừ axit uric
đều làm tăng axit uric trong máu.
Axit uric máu tang khi lượng axit uric trong máu tăng cao
hơn giới hạn bình thường (tuỳ theo chỉ số của mỗi phòng xét nghiệm, tuổi, giới),
thường ở nam là trên 7,0 mg/dl (hay trên 420 micromol/l), ở nữ trên 6,0 mg/l
(360 micromol/l).
Hiện nay có một thực tế là rất nhiều người, kể cả các bác sỹ
không phải chuyên khoa, cho rằng cứ tang axit uric mau là bệnh Gut và cho điều
trị luôn. Đây là quan niệm sai lầm vì chỉ coi là có bệnh Gut khi tang axit uric
mau đi kèm với sự lắng đọng axit uric và gây tổn thương ở khớp hay những tổ chức
khác.
Nguyên nhân chính làm
tăng axit uric máu:
Vậy câu hỏi đặt ra là nguyên nhân của tình trạng tang axit
uric mau là gì, và khi nào thì phải điều trị tình trạng tang axit uric mau
không triệu chứng.
Về nguyên nhân tang axit uric mau người ta thấy có một số nguyên
nhân chính sau đây:
- Nhóm suy giảm khả năng bài xuất axit uric ở ống thận tiên
phát đa nguyên nhân, đặc biệt trong trường hợp ăn nhiều thức ăn chứa nhân
purin, nghiện rượu. Loại này thường có tính chất gia đình, khởi phát thươờng do
uống quá nhiều rươợu. Đây là nhóm hay gặp nhất (90% các trường hợp).
- Nhóm tăng tạo axit uric nguyên phát (bẩm sinh). Đây là
nhóm nguyên nhân hiếm gặp (dưới 1%) do có các bất thường về enzym: thiếu hụt
hoàn toàn hoặc một phần enzym hypoxanthine guanine phosphoribosyltransferase
(HGPRT), hoặc do tăng hoạt tính của enzym phosphoribosylpyrophosphate (PRPP).
- Nhóm nguyên nhân còn lại (chiếm khoảng 10%) là tình trạng
tăng axit uric thứ phát: do tăng sản xuất axit uric do ăn uống nhiều thức ăn có
nhân purin (đặc biệt các thịt màu đỏ như chó, bò, dê, cá biển...); uống nhiều
rượu; do tăng huỷ tế bào gặp trong bệnh đa u tuỷ xương, thiếu máu tan máu, bệnh
bạch cầu (leucemia), dùng hoá chất gây độc tế bào điều trị ung thư; bệnh vẩy nến...Tăng
axit uric thứ phát còn do giảm bài tiết axit uric ở thận. Nhóm này có các
nguyên nhân như nghiện rượu,
suy thận
mạn tính, tăng huyết áp, tình trạng nhiễm toan ceton trong đái tháo đường hay
nhịn đói lâu ngày, tình trạng nhiễm toan lactic ở người nghiện rượu.
- Một trong nhứng nguyên nhân gây giảm bài tiết axit uric là
do sử dụng thuốc. Các thuốc thường gặp là aspirin liều thấp; phenylbutazone liều
thấp; đa số các thuốc lợi tiểu dùng kéo dài (trừ nhóm spironolactone) như
thiazide, furosemide; thuốc điều trị lao như ethambutol, pyrazinamind; các thuốc
axit ethacrynic, axit nicotinic...
Điều trị tăng axit
uric máu như thế nào?
Lợi ích của việc điều trị tình trạng tang axit uric mau ở những
bệnh nhân đã bị cơn Gut là điều đã được chứng minh. Nó góp phần hạn chế, ngừng
các cơn Gut cấp tái phát cũng như biến chuyển bệnh thành Gut mạn tính có hạt
tophi,
soi than-
suy thận do Gut.
Mặc dù vậy
trong trường hợp tang axit uric mau không triệu chứng thì còn nhiều
tranh cãi. Có nên điều trị hạ axit uric hay không, điều trị như thế nào. Qua
nhiều nghiên cứu cho thấy không có những bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ việc dùng
thuốc hạ axit uric trong trường hợp này. Ngược lại với lợi ích ít ỏi thu được
là việc bệnh nhân phải mất nhiều chi phí cho điều trị cũng như tăng nguy cơ mắc
nhiều biến chứng do dùng thuốc.
Tuy nhiên trong trường hợp tăng axit uric không triệu chứng
bạn có thể thảm khảo và tuân theo chỉ dẫn sau: chỉ dùng thuốc khi nồng độ axit
uric máu quá cao trên 10-12mg/dl (khoảng 700 micromol/l) hoặc khi có sự sản xuất
axit uric cấp tính, ví dụ trong điều trị hoá trị liệu trong bệnh ung thư gây huỷ
tế bào nhiều. Có thể dùng liệu pháp dự phòng tình trạng tang axit uric mau ở những
trường hợp dự đoán trước là sẽ có tình trạng tăng axit uric nhiều cấp tính như
trên. Khi đó lợi ích thu được chủ yếu là tránh được tình trạng suy thận cấp do
tăng lắng đọng tinh thể urat ở ống thận. Thuốc lựa chọn hàng đầu trong các trường
hợp này là thuốc ức chế xanthine oxidase như allopurinol (Zyloric), tisopurine
(Thiopurinol) hoặc thuốc tiêu axit uric (enzym uricase- biệt dược Uricozym).
Các trường hợp xét nghiệm thường xuyên có tình trạng tăng axit
uric trên 10 mg/dl mà kháng với các biện pháp điều chỉnh chế độ ăn uống, hoặc
có tiền sử gia đình bị Gut, bị sỏi thận kèm tang axit uric mau, có dấu hiệu tổn
thương thận đều cần phải dùng các thuốc giảm axit uric. Lưu ý không dùng thuốc
nhóm tăng thải axit uric như probenecid (Benemid) qua thận ở những bệnh nhân có
một trong các biểu hiện sau: tiền sử hoặc đang có sỏi thận, suy thận, có hạt
tophi và giảm bài tiết urat qua thận.
Tất cả các trường hợp tang axit uric mau không có triệu chứng
khác ở mức độ trung bình (dưới 10mg/dl) đều cần thực hiện các chế độ ăn uống
sinh hoạt hợp lý như với các bệnh nhân bị Gut mà chưa cần dùng thuốc hạ axit
uric máu.
Tóm lại, bạn nên định kỳ đi khám chuyên khoa, xét nghiệm để
có thể phát hiện bệnh và có phương hướng điều trị bệnh kịp thời